Streptococcus nhóm b là gì? Các công bố khoa học về Streptococcus nhóm b

Streptococcus nhóm B (GBS) là một loại vi khuẩn Gram-dương thường được tìm thấy ở đường hô hấp và ở ruột người. GBS có thể gây ra nhiều bệnh trong con người, ba...

Streptococcus nhóm B (GBS) là một loại vi khuẩn Gram-dương thường được tìm thấy ở đường hô hấp và ở ruột người. GBS có thể gây ra nhiều bệnh trong con người, bao gồm viêm phổi, viêm màng não, viêm khớp, viêm niêm mạc huyết, viêm đầu-pi-tuyến của trẻ sơ sinh và viêm nhiễm khuẩn khi phụ nữ mang thai. Nó cũng có thể gây ra các vấn đề sức khỏe cho người già và người có hệ miễn dịch suy giảm.

Trong người phụ nữ mang thai, GBS cũng có thể gây ra viêm nhiễm khuẩn ở người mẹ hoặc trẻ sơ sinh mới sinh. Do đó, một phần quan trọng của chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ mang thai là kiểm tra xem có nhiễm trùng GBS hay không và điều trị nếu cần thiết để ngăn chặn lây lan của vi khuẩn này cho trẻ sơ sinh.

Ngoài ra, vi khuẩn GBS cũng có thể gây ra nhiễm trùng huyết và viêm nhiễm khuẩn ở người già hoặc người có hệ miễn dịch suy giảm, vì vậy việc phát hiện và điều trị nhiễm trùng GBS cũng là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực y tế công cộng.
Vi khuẩn Streptococcus nhóm B thường tồn tại tự nhiên trong cơ thể người mà không gây ra triệu chứng bệnh lý. Tuy nhiên, ở những trường hợp cụ thể, nó có thể gây ra bệnh nếu xuất hiện các yếu tố nguy cơ như thai kỳ, tuổi già, hoặc hệ miễn dịch suy giảm.

Vi rút Streptococcus nhóm B thường được truyền từ đối tác tình dục hoặc từ mẹ sang con trong quá trình sinh đẻ, làm tăng nguy cơ trẻ sơ sinh bị nhiễm trùng nội sinh hoặc viêm màng não do vi khuẩn. Do đó, trong quá trình chăm sóc sức khỏe thai kỳ, việc xác định và điều trị GBS là rất quan trọng để đảm bảo sức khỏe của mẹ và thai nhi.

Nhìn chung, việc nắm rõ thông tin về vi khuẩn Streptococcus nhóm B và các biện pháp phòng ngừa sẽ giúp giảm nguy cơ lây nhiễm và bệnh lý gây ra bởi vi khuẩn này đối với cả bà mẹ và trẻ sơ sinh.
Một số thông tin quan trọng về vi khuẩn Streptococcus nhóm B (GBS) bao gồm:

1. Phương pháp phòng ngừa: Một cách phổ biến để ngăn chặn lây nhiễm GBS cho trẻ sơ sinh là thông qua việc tiêm phòng bằng kháng thể GBS cho phụ nữ mang thai. Điều này giúp giảm nguy cơ lây nhiễm cho trẻ sơ sinh khi sinh.

2. Làm thế nào để xác định GBS: Những phụ nữ mang thai thường sẽ được kiểm tra để xác định xem có mắc bệnh GBS hay không trong thời gian thai kỳ. Việc kiểm tra này thường được thực hiện thông qua xét nghiệm mẫu bệnh phẩm từ âm đạo và hậu môn.

3. Triệu chứng nhiễm trùng GBS: Các triệu chứng của nhiễm trùng GBS có thể bao gồm sốt, phát ban, viêm màng não, viêm khớp và các triệu chứng viêm nhiễm khác. Việc phát hiện sớm và điều trị nhiễm trùng là quan trọng để ngăn chặn biến chứng và tái phát bệnh.

4. Điều trị: Trong trường hợp nhiễm trùng GBS, việc sử dụng kháng sinh như penicilin thường được sử dụng để điều trị. Việc đảm bảo điều trị đúng phương pháp và theo dõi triển vọng của các bệnh nhân GBS là cần thiết để đảm bảo hiệu quả điều trị và tránh sự phát triển của chứng bệnh nặng hơn.

Những thông tin này có thể giúp cung cấp cái nhìn tổng quan về vi khuẩn Streptococcus nhóm B và cách xác định, điều trị và phòng ngừa các bệnh liên quan.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "streptococcus nhóm b":

Tiêu chuẩn hóa và đánh giá phản ứng CAMP cho việc xác định nhanh chóng, tạm thời Streptococcus agalactiae (nhóm B Lancefield) trong vật liệu lâm sàng Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 1 Số 2 - Trang 171-174 - 1975

Các mẫu nuôi cấy sơ cấp từ vật liệu lâm sàng đã được sàng lọc để tìm kiếm sự hiện diện của các khuẩn lạc nghi ngờ là Streptococcus agalactiae (nhóm B Lancefield). Sáu mươi ba mẫu nuôi cấy như vậy và 108 mẫu khác của liên cầu khuẩn tan huyết beta (nhóm A, C và G), được thu thập trong 3 tháng đầu của cuộc điều tra, đã được nghiên cứu thông qua phân nhóm Lancefield, thủy phân sodium hippurate và bài kiểm tra CAMP tiêu chuẩn. Tất cả liên cầu khuẩn đều được cấy vuông góc với đường cấy của Staphylococcus sản xuất độc tố beta trên đĩa thạch máu cừu và ủ khí tài trong hũ nến và kỵ khí ở 37 C. Các đĩa được kiểm tra sau 5-6 giờ và 18 giờ ủ. Sự sinh hemolysis với hình "mũi tên" đặc trưng chỉ ra một phản ứng CAMP dương tính. Tất cả liên cầu nhóm B đều cho phản ứng CAMP dương tính trong hũ nến hoặc kỵ khí, thường trong vòng 5-6 giờ, và khí tài sau 18 giờ ủ. Tất cả liên cầu nhóm A chỉ cho phản ứng dương tính trong điều kiện kỵ khí. Các nhóm C và G là âm tính dưới mọi điều kiện khí quyển. Phản ứng CAMP là một phương pháp nhanh chóng và đáng tin cậy cho việc nhận dạng sơ bộ nhóm liên cầu B khi sử dụng hũ nến trong quá trình ủ.

#Streptococcus agalactiae #Lancefield group B #CAMP test #beta-hemolytic streptococci #clinical material #sodium hippurate hydrolysis
Hoá miễn dịch của polysaccharide vỏ và đặc tính độc lực của type VI Streptococcus agalactiae (liên cầu khuẩn nhóm B) Dịch bởi AI
Infection and Immunity - Tập 61 Số 4 - Trang 1272-1280 - 1993

Đã tiến hành nghiên cứu hoá miễn dịch của polysaccharide vỏ và đặc tính độc lực của liên cầu khuẩn nhóm B (GBS), type VI. Bằng phương pháp sắc ký anion áp suất cao và điện áp kế xung, cũng như phân tích cộng hưởng từ hạt nhân 13C, cả các polysaccharide ngoại bào và gắn vào tế bào đều có chứa glucose, galactose và axit N-acetylneuraminic theo tỷ lệ mol là 2:2:1. Khác với tất cả các serotype GBS đã được mô tả đến nay (Ia, Ib, II, III, IV và V), không có N-acetylglucosamine hiện diện, bất kể nguồn gốc của chất liệu (tiết ra hoặc gắn vào tế bào; tham khảo hoặc phân lập lâm sàng). Axit sialic có lẽ liên quan đến cấu trúc xác định miễn dịch của serotype mới này vì việc cắt đường này ra khỏi polysaccharide đã tạo ra một kháng nguyên phản ứng rất yếu với kháng huyết thanh type VI và một dòng kết tủa trong mô hình khuếch tán miễn dịch không đồng nhất với polysaccharide type VI tự nhiên. Sử dụng kháng huyết thanh type VI và kỹ thuật protein A-vàng, một viên nang lớn đã được quan sát thấy ở chủng tham khảo GBS type VI qua kính hiển vi điện tử. Tất cả các chủng type VI được kiểm tra đều gây tử vong cho chuột nhắt CD-1, liều gây chết 50% sau khi thử thách trong phúc mạc dao động từ 1.0 (+/- 0.9, độ lệch chuẩn) x 10(5) đến 2.5 (+/- 1.5, độ lệch chuẩn) x 10(5) CFU mỗi con chuột. Kháng huyết thanh của thỏ chống lại polysaccharide vỏ cho thấy hoạt động bảo vệ đối với chuột tiêm trong phúc mạc với chủng tham khảo type VI hoặc với các phân lập lâm sàng, và hoạt động opsonic trong thí nghiệm thực bào.

#polysaccharide vỏ #liên cầu khuẩn nhóm B #type VI #hoá miễn dịch #độc lực #Streptococcus agalactiae #axit sialic #sắc ký anion #cộng hưởng từ hạt nhân #kháng huyết thanh #thực bào #kính hiển vi điện tử #dịch suyễn
Tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B ở 35 – 37 tuần thai kỳ và hiệu quả của kháng sinh dự phòng lây nhiễm trước sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 3 - Trang 19-26 - 2020
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai kỳ mang liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) ở 35 – 37 tuần và đánh giá hiệu quả dự phòng lây nhiễm trước sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 1.574 thai phụ quản lý thai kỳ tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City từ 1/1/2019 đến 1/1/2020. Chẩn đoán thai kỳ mang GBS dựa vào nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn bằng mẫu dịch âm đạo ở thời điểm 35 - 37 tuần. Liệu pháp dự phòng lây nhiễm trước sinh được áp dụng theo khuyến cáo của CDC, kết quả thai kỳ được đánh giá đối với mẹ và trẻ sơ sinh. Kết quả: Tỷ lệ thai phụ mang GBS từ 35 - 37 tuần là 17,5% (95%CI: 15,5 - 19,7). 100% GBS nhạy cảm với các kháng sinh nhóm β-Lactam và Vancomycin, chỉ có 18,6% nhạy cảm với Clindamycin. Tất cả các thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh theo khuyến cáo CDC. Thai kỳ mang GBS có liên quan đến nguy cơ vỡ ối, rỉ ối ≤ 37 tuần (OR 2,7; 95%CI: 1,3 - 5,6; p = 0,010) và sinh non (OR 2,9; 95%CI: 1,8 - 4,7; p < 0,0001), tuy nhiên, không tăng nguy cơ mổ lấy thai, nhiễm trùng vết mổ và nhiễm trùng hậu sản. So với nhóm không mang GBS, thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh không tăng nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm (OR 1,3; 95%CI: 0,7 - 2,3; p = 0,431), kể cả ở nhóm theo dõi chuyển dạ (OR 1,6; 95%CI: 0,7 - 3,4; p = 0,239).  Kết luận: Tỷ lệ thai kỳ mang GBS trong thai kỳ tương đối cao. Thai kỳ mang GBS sử dụng liệu trình dự phòng lây nhiễm trước sinh không làm tăng nguy cơ kết quả thai kỳ bất lợi ở mẹ và nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm.
#Liên cầu khuẩn nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh #liệu pháp kháng sinh dự phòng trước sinh #nhiễm trùng hậu sản
Lựa chọn chiến lược tầm soát và dự phòng nhiễm khuẩn sơ sinh sớm do Streptococcus nhóm B
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 4 - Trang 31 - 34 - 2019
Streptococcus nhóm B (GBS) là tác nhân thường gặp nhất gây ra nhiễm khuẩn xảy ra ở trẻ trong vòng 7 ngày đầu sau sinh. Việc lây truyền dọc từ mẹ sang con trong quá trình sinh có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiễm khuẩn sơ sinh (NKSS) sớm do GBS. Từ năm 2002, CDC và Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) khuyến cáo nên tầm soát thường quy GBS trên tất cả các thai phụ ở tuổi thai 35 – 37 tuần. Theo khuyến cáo này, những thai phụ có kết quả tầm soát dương tính với GBS, hoặc vào chuyển dạ trước thời điểm tầm soát này, nên được sử dụng kháng sinh dự phòng (KSDP) trong quá trình chuyển dạ. Tuy nhiên, việc áp dụng phác đồ tầm soát thường quy GBS có thể làm tăng gánh đối với các phòng xét nghiệm, cũng như tăng chi phí y tế, nhất là đối với các nước có nền kinh tế thấp. Hội đồng đánh giá các chiến lược tầm soát Vương quốc Anh đã tiến hành xem xét hiệu quả của chiến lược dự phòng NKSS sớm do GBS trong 2 năm 2016-2017 và đến tháng 3 năm 2017, đưa ra khuyến cáo không nên áp dụng chương trình tầm soát thường quy trong thai kỳ với GBS. Với cách tiếp cận này, quyết định sử dụng KSDP trong chuyển dạ sẽ dựa trên sự hiện diện các yếu tố nguy cơ của NKSS sớm do GBS. Đối với trường hợp thai non tháng ối vỡ và chưa vào chuyển dạ thật sự, chưa cần thiết sử dụng KSDP cho GBS và cũng không khuyến cáo thực hiện xét nghiệm tầm soát GBS. Cả ACOG và RCOG vẫn đồng thuận với việc sử dụng benzylpenicillin như phác đồ đầu tay. Cần có thêm các nghiên cứu từ Việt Nam về GBS để tìm ra mô hình tầm soát và dự phòng phù hợp.
#GBS #NKSS sớm #KSDP #tầm soát thường quy #benzylpenicillin.
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VỚI NHIỄM LIÊN CẦU KHUẨN NHÓM B ĐƯỜNG SINH SẢN Ở PHỤ NỮ CÓ THAI TUẦN THỨ 35 ĐẾN TUẦN THỨ 37 TẠI NGHỆ AN (2019)
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 3 - 2022
Nghiên cứu ngang mô tả có phân tích tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An năm 2019 ở phụ nữ có thai. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm và một số yếu tố liên quan nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B - Group B Streptococcus (GBS) đường sinh sản ở phụ nữ có thai tuần thứ 35 đến tuần thứ 37 tuần tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An năm 2019. Đối tượng nghiên cứu: 750 phụ nữ có thai tuần thứ 35 đến tuần thứ 37 tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, với các kỹ thuật thăm khám lâm sàng, phỏng vấn thai phụ, nuôi cấy vi khuẩn trong môi trường chọn lọc GBS và CAM test. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ nhiễm GBS ở phụ nữ có thai 35 - 37 tuần tại Nghệ An 2018 bằng nuôi cấy vi khuẩn trong môi trường chọn lọc là 9,2%(69/750). Các yếu tố được xác định có liên quan đến tình trạng nhiễm GBS ở thai phụ gồm: Sử dụng nguồn nước không hợp vệ sinh (OR = 1,86, 95%CI (1,36 - 4,59, p < 0,05); Thực hành vệ sinh không đúng cách: OR = 1,74, 95%CI (1,16 - 4,36), p < 0,05; Có tiền sử nhiễm GBS lần mang thai trước 1,98, 95%CI (1,64 - 4,15), p < 0,05; Không có thói quen rửa vệ sinh âm hộ hằng ngày OR = 3,0, 95%CI(1,42 - 7,59), p < 0,05.
#Phụ nữ có thai; đường sinh sản; Group B Streptococcus.
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM LIÊN CẦU NHÓM B Ở THAI PHỤ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu: xác định tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn (LCK) nhóm B và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ có thai từ 34-36 tuần tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội và xác định mức độ nhạy cảm của một số kháng sinh với nhiễm LCK nhóm B. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 220 thai phụ tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần sẽ được lấy mẫu bệnh phẩm ở hai vị trí là 1/3 ngoài của âm đạo và ở trực tràng. Bệnh phẩm được gửi đến khoa Vi sinh trong vòng 3 giờ kể từ khi lấy mẫu để phân lập và định danh vi khuẩn. Thai phụ nhiễm LCK nhóm B sẽ được làm kháng sinh đồ, sau đó điều trị và theo dõi chuyển dạ đẻ theo đúng quy định. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần trong thời giạn nghiên cứu là 13,2%. Trong nhóm có tiền sử sảy thai, tiền sử sảy thai có nguy cơ nhiễm liên cầu nhóm B gấp 4,36 lần so với nhóm không có tiền sử sảy thai lần nào (OR =4,36, 95% CI : 1,3-13,2). Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở nhóm thai phụ thụt rửa âm đạo chiếm 40,0% cao hơn so với nhóm không có thói quen vệ sinh này, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Độ nhạy cảm của Penicillin, Ampicillin, Augmentin, Ceftriaxone, Cefotaxime, Cefuroxim lần lượt là 86,21%, 79,31%, 89,66%, 65,52%, 65,52%, 72,41%. Liên cầu khuẩn nhóm B nhạy cảm với Vancomycin và Linezolid lần lượt là 72,41% và 89,66%. Kết luận: Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội là 13,2%. Có hai yếu tố là tiền sử sảy thai và thụt rửa âm đạo làm tăng nguy cơ nhiễm LCK nhóm B lên cao hơn lần lượt gấp 3,9 và 5,7 lần so với nhóm không có tiền sử này. Mức độ nhạy cảm kháng sinh của LCK nhóm B với Penicillin và Ampicillin còn tương đối cao và đây vẫn là hai kháng sinh ưu tiên sử dụng dự phòng cho các thai phụ nhiễm LCK nhóm B.
#liên cầu khuẩn nhóm B #phụ nữ có thai #nhạy cảm kháng sinh
TỶ LỆ NHIỄM STREPTOCOCCUS NHÓM B ÂM ĐẠO - TRỰC TRÀNG Ở THAI PHỤ 36-38 TUẦN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 87
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B âm đạo – trực tràng ở thai phụ 36 – 38 tuần tại Bệnh viện Quân Y 87. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang khảo sát 220 trường hợp thai phụ có tuổi thai từ 36 - 38 tuần đến khám thai tại Phòng khám Sản bệnh viện Quân Y 87 được sàng lọc GBS trong thời gian từ 12/2021 - 5/2022. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm streptococcus nhóm B âm đạo - trực tràng của thai phụ qua nuôi cấy 11,8% (KTC 95%: 7,3 – 16,4). Các yếu tố liên quan chính trong đó thai phụ có các triệu chứng viêm âm đạo có tỷ lệ nhiễm GBS gấp 12,2 lần (OR=12,2; KTC95%: 3,8 – 39,1). Thai phụ tăng WBC >10 tăng nguy cơ nhiễm GBS gấp 3,1 lần (OR=3,1; KTC95%: 1,1 – 9,2).  Thai phụ tăng glucose máu > 6,4 mmol/L tăng nguy cơ nhiễm GBS gấp 3,6 lần (OR=3,6; KTC95%:1,03 – 12,5). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Kết luận: Tầm soát GBS âm đạo – trực tràng cho tất cả các thai phụ có tuổi thai 36 – 38 tuần vào xét nghiệm thường quy đặc biệt ở thai phụ có nguy cơ cao như viêm âm đạo, tăng bạch cầu và tăng glucose trong thai kỳ.
#Streptococcus nhóm B #Âm đạo - trực tràng #thai kỳ
Việc sử dụng xét nghiệm nhanh QuikRead go® Strep A trong chẩn đoán viêm họng amidan do vi khuẩn và các quyết định điều trị Dịch bởi AI
European Journal of Clinical Microbiology and Infectious Diseases - Tập 36 - Trang 1733-1738 - 2017
Vi khuẩn Streptococcus nhóm A (GAS) là tác nhân gây ra viêm họng do vi khuẩn chính, cần phải điều trị bằng kháng sinh. Các xét nghiệm chẩn đoán nhanh phát hiện GAS kết hợp với điểm số Centor/McIsaac cho phép chẩn đoán phân biệt chính xác (virus so với vi khuẩn) và khởi đầu điều trị chính xác ngay lập tức. Mục tiêu của nghiên cứu này là đánh giá độ đặc hiệu, độ nhạy, giá trị tiên đoán dương tính (PPV) và giá trị tiên đoán âm tính (NPV) của xét nghiệm QuikRead go® Strep A (Orion Diagnostica Oy, Phần Lan) được khuyến nghị để phát hiện GAS trong mẫu tăm bông họng. Kết quả xét nghiệm nhanh được so sánh với kết quả khám lâm sàng, điểm số Centor/McIsaac và kết quả của các xét nghiệm tham chiếu (cấy vi khuẩn thông thường). Nhóm nghiên cứu gồm 96 người tham gia, trong đó có 44 phụ nữ (46%) và 52 nam giới (54%); trẻ em từ 3-14 tuổi chiếm 46% tổng số bệnh nhân. S. pyogenes được nuôi cấy từ 43 trong số 96 mẫu tăm bông họng. Gần một nửa trong số các mẫu dương tính (47%, n = 20) được thu thập từ trẻ em từ 3 đến 14 tuổi. Các cấy vi khuẩn GAS dương tính được xác nhận ở 33% bệnh nhân có điểm Centor/McIsaac là 2 điểm, 48% bệnh nhân có điểm 3, và 50% bệnh nhân có điểm từ 4 đến 5. Các cấy vi khuẩn đã xác nhận kết quả dương tính của xét nghiệm QuikRead go® Strep A trong 83% trường hợp. Độ đặc hiệu và độ nhạy của xét nghiệm được tính toán cho toàn bộ nhóm nghiên cứu, lần lượt là 85% và 91%. PPV của xét nghiệm là 83% và NPV là 92%. Việc sử dụng các xét nghiệm nhanh để phát hiện kháng nguyên GAS dường như là một lựa chọn tốt thay thế cho chẩn đoán vi khuẩn thông thường của viêm họng do liên cầu, vì nó cho phép chẩn đoán và quyết định kế hoạch điều trị trong một lần khám.
#Streptococcus nhóm A #viêm họng do vi khuẩn #chẩn đoán #xét nghiệm nhanh #Centor/McIsaac
Nhiễm trùng nhóm B Streptococcus xâm lấn ở người lớn không mang thai trong Vùng Thủ đô Brussels, 2005–2019 Dịch bởi AI
European Journal of Clinical Microbiology and Infectious Diseases - Tập 40 - Trang 515-523 - 2020
Để đánh giá tỷ lệ mắc, các đặc điểm lâm sàng, vi khuẩn học và kết quả của các nhiễm trùng xâm lấn do Streptococcus agalactiae (GBS) ở người lớn không mang thai tại ba bệnh viện tuyến cuối trong Vùng Thủ đô Brussels. Tất cả các mẫu nuôi cấy vi khuẩn dương tính với GBS từ năm 2005 đến 2019 tại 3 bệnh viện trong Vùng Thủ đô Brussels đã được thu thập, chỉ bao gồm các trường hợp bệnh xâm lấn. Hồ sơ y tế đã được thu hồi theo cách hồi cứu để tìm kiếm các yếu tố nguy cơ, biểu hiện lâm sàng và kết quả, cũng như thử nghiệm độ nhạy kháng sinh và kiểu huyết thanh GBS. Tỷ lệ mắc được tính toán dựa trên dân số của các bệnh viện. Tổng cộng có 337 trường hợp nhiễm trùng xâm lấn GBS đã được đưa vào nghiên cứu. Tỷ lệ nhiễm GBS xâm lấn tại 3 bệnh viện đã gia tăng từ 3,7 lên 8,2 trường hợp trên 100.000 cư dân giữa năm 2009 và 2018 (p = 0.04). Các yếu tố nguy cơ thường gặp nhất là tiểu đường (36,8%), béo phì (35,0%), ung thư (21,7%), bệnh thận (20,8%) và tuổi cao (≥ 65 tuổi; 47,2%). Nhiễm khuẩn huyết đơn thuần (22%), nhiễm trùng xương khớp (21,4%), áp-xe (13,9%) và nhiễm trùng da và mô mềm (18,4%) là những biểu hiện thường gặp nhất. 21,7% bệnh nhân cần phải nhập viện tại khoa chăm sóc tích cực và tỷ lệ tử vong chung là 9,4%. Tất cả các chủng đều duy trì độ nhạy cảm với penicillin qua các năm. Lên đến 20% các chủng kháng lại clindamycin. Các kiểu huyết thanh Ia, Ib, II, III, IV và V chiếm 96,8% các kiểu huyết thanh có sẵn (60/62). Như đã báo cáo ở một số quốc gia, bệnh GBS xâm lấn ở người lớn không mang thai là một gánh nặng ngày càng gia tăng, đặc biệt là ở những bệnh nhân bị tiểu đường, béo phì và cao tuổi. Gần như tất cả các kiểu huyết thanh được xác định đều nằm trong loại vắc-xin liên hợp GBS hexavalent sắp ra mắt.
#Streptococcus agalactiae #nhiễm trùng xâm lấn #người lớn không mang thai #tỷ lệ mắc #yếu tố nguy cơ #kiểu huyết thanh
Sự hiện diện của khuẩn Streptococcus nhóm B và mô hình nhạy cảm thuốc ở phụ nữ mang thai tại các trung tâm chăm sóc antenatal công cộng được chọn ở Addis Ababa, Ethiopia Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 18 - Trang 1-9 - 2018
Streptococcus nhóm B (GBS) là nguyên nhân hàng đầu gây nhiễm trùng huyết, viêm màng não và viêm phổi ở trẻ sơ sinh. Việc mẹ bị chiếm lĩnh GBS là yếu tố nguy cơ chính dẫn đến bệnh khởi phát sớm ở trẻ sơ sinh. Streptococcus nhóm B hiện đang là nguyên nhân quan trọng gây bệnh tật và tử vong cho mẹ và trẻ sơ sinh ở nhiều nơi trên thế giới. Tại Ethiopia, có rất ít nghiên cứu được thực hiện về việc chiếm lĩnh GBS ở phụ nữ mang thai. Mục tiêu của nghiên cứu này là xác định tỉ lệ chiếm lĩnh GBS, mô hình nhạy cảm với kháng sinh và đánh giá các yếu tố nguy cơ ở phụ nữ mang thai. Một nghiên cứu cắt ngang theo kiểu tiếp cận trước đã được thực hiện từ tháng 5 đến tháng 8 năm 2014 tại các trung tâm chăm sóc antenatal công cộng được chọn ở Addis Ababa, Ethiopia. Dữ liệu lâm sàng và nhân khẩu học xã hội đã được thu thập bằng bảng hỏi có cấu trúc sau khi có sự đồng ý bằng văn bản. Tổng cộng có 281 mẫu tăm bông âm đạo dưới đã được thu thập và nuôi cấy trong 1 ml dịch Todd Hewitt có bổ sung gentamicin và acid nalidixic để ngăn ngừa sự phát triển của các tác nhân gây ô nhiễm. Sau khi ủ qua đêm, tất cả các môi trường nuôi cấy đều được cấy lại trên môi trường thạch máu cừu 5% để tách GBS. Kiểm tra nhạy cảm kháng sinh được thực hiện theo tiêu chí của hướng dẫn Viện Tiêu chuẩn Lâm sàng và Xét nghiệm (CLSI) năm 2013 bằng phương pháp khuếch tán đĩa. Dữ liệu được nhập và phân tích bằng phần mềm SPSS phiên bản 20.0. Phân tích kiểm định Chi-squared và hồi quy logistic nhị phân được sử dụng. Giá trị P < 0.05 được coi là có ý nghĩa thống kê. Tỉ lệ chiếm lĩnh GBS tổng thể ở phụ nữ mang thai là 14.6% (41/281). Sự chiếm lĩnh Streptococcus nhóm B có liên quan đáng kể đến các cơ sở y tế (P < 0.05). Tất cả các chủng GBS đều nhạy cảm với chloramphenicol. Kháng tetracycline, cefotaxime, clindamycin, penicillin, vancomycin, ampicillin và erythromycin lần lượt là 90.2%, 34.1%, 26.8%, 19.5%, 17%, 14.6% và 7.5%. Kháng kháng sinh đa dạng (MDR) (≥ 2 loại thuốc) đã được phát hiện trong 43.9% (18/41) các chủng. Tần suất cao của chiếm lĩnh GBS (14.6%) và kháng kháng sinh phổ biến cho thấy tầm quan trọng của việc sàng lọc chiếm lĩnh GBS ở phụ nữ mang thai trong khoảng thời gian 35–37 tuần thai và kiểm tra nhạy cảm kháng sinh của họ nhằm cung cấp phương pháp dự phòng bằng kháng sinh và giảm thiểu nhiễm trùng và bệnh đồng mắc ở trẻ sơ sinh.
#Streptococcus nhóm B #chiếm lĩnh #nhạy cảm thuốc #phụ nữ mang thai #nghiên cứu cắt ngang #Ethiopia
Tổng số: 21   
  • 1
  • 2
  • 3