Streptococcus nhóm b là gì? Các công bố khoa học về Streptococcus nhóm b

Streptococcus nhóm B (GBS) là một loại vi khuẩn Gram-dương thường được tìm thấy ở đường hô hấp và ở ruột người. GBS có thể gây ra nhiều bệnh trong con người, ba...

Streptococcus nhóm B (GBS) là một loại vi khuẩn Gram-dương thường được tìm thấy ở đường hô hấp và ở ruột người. GBS có thể gây ra nhiều bệnh trong con người, bao gồm viêm phổi, viêm màng não, viêm khớp, viêm niêm mạc huyết, viêm đầu-pi-tuyến của trẻ sơ sinh và viêm nhiễm khuẩn khi phụ nữ mang thai. Nó cũng có thể gây ra các vấn đề sức khỏe cho người già và người có hệ miễn dịch suy giảm.

Trong người phụ nữ mang thai, GBS cũng có thể gây ra viêm nhiễm khuẩn ở người mẹ hoặc trẻ sơ sinh mới sinh. Do đó, một phần quan trọng của chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ mang thai là kiểm tra xem có nhiễm trùng GBS hay không và điều trị nếu cần thiết để ngăn chặn lây lan của vi khuẩn này cho trẻ sơ sinh.

Ngoài ra, vi khuẩn GBS cũng có thể gây ra nhiễm trùng huyết và viêm nhiễm khuẩn ở người già hoặc người có hệ miễn dịch suy giảm, vì vậy việc phát hiện và điều trị nhiễm trùng GBS cũng là một vấn đề quan trọng trong lĩnh vực y tế công cộng.
Vi khuẩn Streptococcus nhóm B thường tồn tại tự nhiên trong cơ thể người mà không gây ra triệu chứng bệnh lý. Tuy nhiên, ở những trường hợp cụ thể, nó có thể gây ra bệnh nếu xuất hiện các yếu tố nguy cơ như thai kỳ, tuổi già, hoặc hệ miễn dịch suy giảm.

Vi rút Streptococcus nhóm B thường được truyền từ đối tác tình dục hoặc từ mẹ sang con trong quá trình sinh đẻ, làm tăng nguy cơ trẻ sơ sinh bị nhiễm trùng nội sinh hoặc viêm màng não do vi khuẩn. Do đó, trong quá trình chăm sóc sức khỏe thai kỳ, việc xác định và điều trị GBS là rất quan trọng để đảm bảo sức khỏe của mẹ và thai nhi.

Nhìn chung, việc nắm rõ thông tin về vi khuẩn Streptococcus nhóm B và các biện pháp phòng ngừa sẽ giúp giảm nguy cơ lây nhiễm và bệnh lý gây ra bởi vi khuẩn này đối với cả bà mẹ và trẻ sơ sinh.
Một số thông tin quan trọng về vi khuẩn Streptococcus nhóm B (GBS) bao gồm:

1. Phương pháp phòng ngừa: Một cách phổ biến để ngăn chặn lây nhiễm GBS cho trẻ sơ sinh là thông qua việc tiêm phòng bằng kháng thể GBS cho phụ nữ mang thai. Điều này giúp giảm nguy cơ lây nhiễm cho trẻ sơ sinh khi sinh.

2. Làm thế nào để xác định GBS: Những phụ nữ mang thai thường sẽ được kiểm tra để xác định xem có mắc bệnh GBS hay không trong thời gian thai kỳ. Việc kiểm tra này thường được thực hiện thông qua xét nghiệm mẫu bệnh phẩm từ âm đạo và hậu môn.

3. Triệu chứng nhiễm trùng GBS: Các triệu chứng của nhiễm trùng GBS có thể bao gồm sốt, phát ban, viêm màng não, viêm khớp và các triệu chứng viêm nhiễm khác. Việc phát hiện sớm và điều trị nhiễm trùng là quan trọng để ngăn chặn biến chứng và tái phát bệnh.

4. Điều trị: Trong trường hợp nhiễm trùng GBS, việc sử dụng kháng sinh như penicilin thường được sử dụng để điều trị. Việc đảm bảo điều trị đúng phương pháp và theo dõi triển vọng của các bệnh nhân GBS là cần thiết để đảm bảo hiệu quả điều trị và tránh sự phát triển của chứng bệnh nặng hơn.

Những thông tin này có thể giúp cung cấp cái nhìn tổng quan về vi khuẩn Streptococcus nhóm B và cách xác định, điều trị và phòng ngừa các bệnh liên quan.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "streptococcus nhóm b":

Lựa chọn chiến lược tầm soát và dự phòng nhiễm khuẩn sơ sinh sớm do Streptococcus nhóm B
Tạp chí Phụ Sản - Tập 16 Số 4 - Trang 31 - 34 - 2019
Streptococcus nhóm B (GBS) là tác nhân thường gặp nhất gây ra nhiễm khuẩn xảy ra ở trẻ trong vòng 7 ngày đầu sau sinh. Việc lây truyền dọc từ mẹ sang con trong quá trình sinh có thể là nguyên nhân dẫn đến tình trạng nhiễm khuẩn sơ sinh (NKSS) sớm do GBS. Từ năm 2002, CDC và Hiệp hội sản phụ khoa Hoa Kỳ (ACOG) khuyến cáo nên tầm soát thường quy GBS trên tất cả các thai phụ ở tuổi thai 35 – 37 tuần. Theo khuyến cáo này, những thai phụ có kết quả tầm soát dương tính với GBS, hoặc vào chuyển dạ trước thời điểm tầm soát này, nên được sử dụng kháng sinh dự phòng (KSDP) trong quá trình chuyển dạ. Tuy nhiên, việc áp dụng phác đồ tầm soát thường quy GBS có thể làm tăng gánh đối với các phòng xét nghiệm, cũng như tăng chi phí y tế, nhất là đối với các nước có nền kinh tế thấp. Hội đồng đánh giá các chiến lược tầm soát Vương quốc Anh đã tiến hành xem xét hiệu quả của chiến lược dự phòng NKSS sớm do GBS trong 2 năm 2016-2017 và đến tháng 3 năm 2017, đưa ra khuyến cáo không nên áp dụng chương trình tầm soát thường quy trong thai kỳ với GBS. Với cách tiếp cận này, quyết định sử dụng KSDP trong chuyển dạ sẽ dựa trên sự hiện diện các yếu tố nguy cơ của NKSS sớm do GBS. Đối với trường hợp thai non tháng ối vỡ và chưa vào chuyển dạ thật sự, chưa cần thiết sử dụng KSDP cho GBS và cũng không khuyến cáo thực hiện xét nghiệm tầm soát GBS. Cả ACOG và RCOG vẫn đồng thuận với việc sử dụng benzylpenicillin như phác đồ đầu tay. Cần có thêm các nghiên cứu từ Việt Nam về GBS để tìm ra mô hình tầm soát và dự phòng phù hợp.
#GBS #NKSS sớm #KSDP #tầm soát thường quy #benzylpenicillin.
NGHIÊN CỨU TỶ LỆ NHIỄM LIÊN CẦU NHÓM B Ở THAI PHỤ VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 1 - 2022
Mục tiêu nghiên cứu: xác định tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn (LCK) nhóm B và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ có thai từ 34-36 tuần tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội và xác định mức độ nhạy cảm của một số kháng sinh với nhiễm LCK nhóm B. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 220 thai phụ tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội. Các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần sẽ được lấy mẫu bệnh phẩm ở hai vị trí là 1/3 ngoài của âm đạo và ở trực tràng. Bệnh phẩm được gửi đến khoa Vi sinh trong vòng 3 giờ kể từ khi lấy mẫu để phân lập và định danh vi khuẩn. Thai phụ nhiễm LCK nhóm B sẽ được làm kháng sinh đồ, sau đó điều trị và theo dõi chuyển dạ đẻ theo đúng quy định. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần trong thời giạn nghiên cứu là 13,2%. Trong nhóm có tiền sử sảy thai, tiền sử sảy thai có nguy cơ nhiễm liên cầu nhóm B gấp 4,36 lần so với nhóm không có tiền sử sảy thai lần nào (OR =4,36, 95% CI : 1,3-13,2). Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở nhóm thai phụ thụt rửa âm đạo chiếm 40,0% cao hơn so với nhóm không có thói quen vệ sinh này, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p<0,05. Độ nhạy cảm của Penicillin, Ampicillin, Augmentin, Ceftriaxone, Cefotaxime, Cefuroxim lần lượt là 86,21%, 79,31%, 89,66%, 65,52%, 65,52%, 72,41%. Liên cầu khuẩn nhóm B nhạy cảm với Vancomycin và Linezolid lần lượt là 72,41% và 89,66%. Kết luận: Tỷ lệ nhiễm LCK nhóm B ở các thai phụ có tuổi thai từ 34-36 tuần tại bệnh viện Phụ sản Hà Nội là 13,2%. Có hai yếu tố là tiền sử sảy thai và thụt rửa âm đạo làm tăng nguy cơ nhiễm LCK nhóm B lên cao hơn lần lượt gấp 3,9 và 5,7 lần so với nhóm không có tiền sử này. Mức độ nhạy cảm kháng sinh của LCK nhóm B với Penicillin và Ampicillin còn tương đối cao và đây vẫn là hai kháng sinh ưu tiên sử dụng dự phòng cho các thai phụ nhiễm LCK nhóm B.
#liên cầu khuẩn nhóm B #phụ nữ có thai #nhạy cảm kháng sinh
TỶ LỆ NHIỄM STREPTOCOCCUS NHÓM B ÂM ĐẠO - TRỰC TRÀNG Ở THAI PHỤ 36-38 TUẦN VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN TẠI BỆNH VIỆN QUÂN Y 87
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ và các yếu tố liên quan đến tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B âm đạo – trực tràng ở thai phụ 36 – 38 tuần tại Bệnh viện Quân Y 87. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Thiết kế nghiên cứu cắt ngang khảo sát 220 trường hợp thai phụ có tuổi thai từ 36 - 38 tuần đến khám thai tại Phòng khám Sản bệnh viện Quân Y 87 được sàng lọc GBS trong thời gian từ 12/2021 - 5/2022. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm streptococcus nhóm B âm đạo - trực tràng của thai phụ qua nuôi cấy 11,8% (KTC 95%: 7,3 – 16,4). Các yếu tố liên quan chính trong đó thai phụ có các triệu chứng viêm âm đạo có tỷ lệ nhiễm GBS gấp 12,2 lần (OR=12,2; KTC95%: 3,8 – 39,1). Thai phụ tăng WBC >10 tăng nguy cơ nhiễm GBS gấp 3,1 lần (OR=3,1; KTC95%: 1,1 – 9,2).  Thai phụ tăng glucose máu > 6,4 mmol/L tăng nguy cơ nhiễm GBS gấp 3,6 lần (OR=3,6; KTC95%:1,03 – 12,5). Sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Kết luận: Tầm soát GBS âm đạo – trực tràng cho tất cả các thai phụ có tuổi thai 36 – 38 tuần vào xét nghiệm thường quy đặc biệt ở thai phụ có nguy cơ cao như viêm âm đạo, tăng bạch cầu và tăng glucose trong thai kỳ.
#Streptococcus nhóm B #Âm đạo - trực tràng #thai kỳ
NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN VỚI NHIỄM LIÊN CẦU KHUẨN NHÓM B ĐƯỜNG SINH SẢN Ở PHỤ NỮ CÓ THAI TUẦN THỨ 35 ĐẾN TUẦN THỨ 37 TẠI NGHỆ AN (2019)
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 3 - 2022
Nghiên cứu ngang mô tả có phân tích tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An năm 2019 ở phụ nữ có thai. Mục tiêu: Xác định tỷ lệ nhiễm và một số yếu tố liên quan nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B - Group B Streptococcus (GBS) đường sinh sản ở phụ nữ có thai tuần thứ 35 đến tuần thứ 37 tuần tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An năm 2019. Đối tượng nghiên cứu: 750 phụ nữ có thai tuần thứ 35 đến tuần thứ 37 tại Bệnh viện Sản Nhi Nghệ An, với các kỹ thuật thăm khám lâm sàng, phỏng vấn thai phụ, nuôi cấy vi khuẩn trong môi trường chọn lọc GBS và CAM test. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ nhiễm GBS ở phụ nữ có thai 35 - 37 tuần tại Nghệ An 2018 bằng nuôi cấy vi khuẩn trong môi trường chọn lọc là 9,2%(69/750). Các yếu tố được xác định có liên quan đến tình trạng nhiễm GBS ở thai phụ gồm: Sử dụng nguồn nước không hợp vệ sinh (OR = 1,86, 95%CI (1,36 - 4,59, p < 0,05); Thực hành vệ sinh không đúng cách: OR = 1,74, 95%CI (1,16 - 4,36), p < 0,05; Có tiền sử nhiễm GBS lần mang thai trước 1,98, 95%CI (1,64 - 4,15), p < 0,05; Không có thói quen rửa vệ sinh âm hộ hằng ngày OR = 3,0, 95%CI(1,42 - 7,59), p < 0,05.
#Phụ nữ có thai; đường sinh sản; Group B Streptococcus.
Tỷ lệ mang liên cầu khuẩn nhóm B ở 35 – 37 tuần thai kỳ và hiệu quả của kháng sinh dự phòng lây nhiễm trước sinh
Tạp chí Phụ Sản - Tập 18 Số 3 - Trang 19-26 - 2020
Mục tiêu: Xác định tỷ lệ thai kỳ mang liên cầu khuẩn nhóm B (GBS) ở 35 – 37 tuần và đánh giá hiệu quả dự phòng lây nhiễm trước sinh. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang mô tả trên 1.574 thai phụ quản lý thai kỳ tại bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City từ 1/1/2019 đến 1/1/2020. Chẩn đoán thai kỳ mang GBS dựa vào nuôi cấy, phân lập và định danh vi khuẩn bằng mẫu dịch âm đạo ở thời điểm 35 - 37 tuần. Liệu pháp dự phòng lây nhiễm trước sinh được áp dụng theo khuyến cáo của CDC, kết quả thai kỳ được đánh giá đối với mẹ và trẻ sơ sinh. Kết quả: Tỷ lệ thai phụ mang GBS từ 35 - 37 tuần là 17,5% (95%CI: 15,5 - 19,7). 100% GBS nhạy cảm với các kháng sinh nhóm β-Lactam và Vancomycin, chỉ có 18,6% nhạy cảm với Clindamycin. Tất cả các thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh theo khuyến cáo CDC. Thai kỳ mang GBS có liên quan đến nguy cơ vỡ ối, rỉ ối ≤ 37 tuần (OR 2,7; 95%CI: 1,3 - 5,6; p = 0,010) và sinh non (OR 2,9; 95%CI: 1,8 - 4,7; p < 0,0001), tuy nhiên, không tăng nguy cơ mổ lấy thai, nhiễm trùng vết mổ và nhiễm trùng hậu sản. So với nhóm không mang GBS, thai kỳ mang GBS được dự phòng lây nhiễm trước sinh không tăng nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm (OR 1,3; 95%CI: 0,7 - 2,3; p = 0,431), kể cả ở nhóm theo dõi chuyển dạ (OR 1,6; 95%CI: 0,7 - 3,4; p = 0,239).  Kết luận: Tỷ lệ thai kỳ mang GBS trong thai kỳ tương đối cao. Thai kỳ mang GBS sử dụng liệu trình dự phòng lây nhiễm trước sinh không làm tăng nguy cơ kết quả thai kỳ bất lợi ở mẹ và nguy cơ nhiễm trùng sơ sinh sớm.
#Liên cầu khuẩn nhóm B #nhiễm trùng sơ sinh #liệu pháp kháng sinh dự phòng trước sinh #nhiễm trùng hậu sản
KHẢO SÁT KIẾN THỨC, THÁI ĐỘ VÀ THỰC HÀNH CỦA THAI PHỤ CÓ TUỔI THAI TỪ 36 TUẦN ĐẾN 37 TUẦN 6 NGÀY VỀ TẦM SOÁT NHIỄM STREPTOCOCCUS NHÓM B TẠI BỆNH VIỆN TỪ DŨ
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 508 Số 1 - 2022
Đặt vấn đề: Trong các tác nhân gây các bệnh nhiễm trùng ở trẻ sơ sinh, GBS là một trong các tác nhân phổ biến nhất, thường gây nhiễm trùng sơ sinh sớm và có thể dẫn tới tử vong. Việc thực hiện xét nghiệm tầm soát GBS sớm trong thai kì được chứng minh là làm giảm tỉ suất bệnh ở trẻ, tuy nhiên thực hành xét nghiệm này còn chưa thật phổ biến và trở thành vấn đề ngày càng được quan tâm [3]. Mục tiêu: Xác định tỉ lệ thai phụ ở tuổi thai từ 36 tuần đến 37 tuần 6 ngày có kiến thức đúng, thái độ đúng và thực hành đúng về xét nghiệm tầm soát Streptococcus nhóm B tại bệnh viện Từ Dũ. Phương pháp: Nghiên cứu cắt ngang trên 385 sản phụ tuổi thai từ 36 tuần đến 37 tuần 6 ngày khám thai tại Bệnh viện Từ Dũ từ tháng 11/2020 đến tháng 3/2021. Kết quả: Có 27,5% sản phụ có kiến thức đối với xét nghiệm tầm soát Streptococcus nhóm B, tỉ lệ này liên quan đến việc thai phụ đã được thông tin về xét nghiệm này trước đó mà không liên quan đến các yếu tố dịch tễ hay sản khoa khác. Mặc dù vậy, gần phân nửa sản phụ khoảng 42,6% ủng hộ cho việc tầm soát thường qui đối với xét nghiệm tầm soát Streptococcus nhóm B. Nghiên cứu cũng ghi nhận có 6,8% sản phụ đã thực hiện xét nghiệm tại thời điểm phỏng vấn, đồng thời 6 tuần sau phỏng vấn, chúng tôi ghi nhận số thai phụ thực hiện xét nghiệm này trong thai kì đến khi chuyển dạ tại bệnh viện Từ Dũ là 13%. Kết luận: Tỉ lệ sản phụ có kiến thức đối với xét nghiệm tầm soát Streptococcus nhóm B là 27,5%. Phần lớn sản phụ chưa được thông tin, không có kiến thức đúng về xét nghiệm khi đến thời điểm thích hợp để tầm soát. Một nửa đối tượng nghiên cứu ủng hộ chiến lược tầm soát GBS thường qui. Tỉ lệ thực hiện xét nghiệm còn thấp.
#Tầm soát #Streptococcus nhóm B #chăm sóc trước sinh
TÌNH HÌNH NHIỄM STREPTOCOCCUS NHÓM B ÂM ĐẠO - TRỰC TRÀNG Ở THAI PHỤ VÀ KẾT QUẢ DỰ PHÒNG LÂY TRUYỀN TỪ MẸ SANG CON TẠI BỆNH VIỆN PHỤ SẢN THÀNH PHỐ CẦN THƠ
Đặt vấn đề: Streptococcus là tác nhân vi khuẩn phổ biến gây nhiễm khuẩn tại đường niệusinh dục của phụ nữ, là nguyên nhân gây nhiễm khuẩn huyết cho trẻ sơ sinh, thậm chí gây tử vong chu sinh. Mục tiêu nghiên cứu: Xác định tỷ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B (GBS), tìm hiểu một số yếu tố liên quan và đánh giá kết quả điều trị kháng sinh dự phòng lây truyền từ mẹ sang con ở phụ nữ mang thai nhiễm Streptococcus tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang 250 thai phụ từ 35-37 tuần đến khám tại Bệnh viện Phụ sản thành phố Cần Thơ từ tháng 10/2019 đến tháng 02/2020, xác định nhiễm GBS âm đạo-trực tràng bằng kỹ thuật  Real-time PCR, phỏng vấn, điều trị kháng sinh dự phòng thai phụ nhiễm GBS và xét nghiệm GBS cho trẻ sơ sinh ở thai phụ nhiễm. Kết quả: Tỷ lệ nhiễm GBS ở thai phụ là 17,6%; viêm âm đạo trong thai kỳ và bạch cầu niệu làm tăng nguy cơ nhiễm GBS 3,3 và 6,9 lần với khoảng tin cậy 95% lần lượt 1,6-6,9; 3,2-15,2. Kháng sinh dự phòng nhiễm GBS từ mẹ sang con thành công 90,9%; 100% trẻ nhiễm GBS khỏe mạnh khi xuất viện. Kết luận: Tỷ lệ nhiễm GBS âm đạo-trực tràng ở thai phụ còn khá cao. Dự phòng nhiễm GBS từ mẹ sang con đem lại hiệu quả cao trong phòng ngừa nhiễm trùng sơ sinh cho trẻ.
#Streptococcus nhóm B #thai phụ
Tình trạng nhiễm liên cầu khuẩn nhóm b ở phụ nữ có thai từ 34 – 36 tuần tại Bệnh viện Phụ Sản Hà Nội
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2A - Trang 92-94 - 2015
Đặt vấn đề: Với mục tiêu xác định mức độ nhạy cảm của một số kháng sinh với nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B trên thai phụ, chúng tôi tiến hành lấy bệnh phẩm tại âm đạo và trực tràng của 220 thai phụ có tuổi thai tử 34 – 36 tuần khám, quản lý thai tại BVPS Hà Nội rồi nuôi cấy trong môi trường Todd Hewit. Phương pháp: Nghiên cứu tiến cứu mô tả. Kết quả và kết luận: Tỷ lệ nhiễm liên cầu khuẩn nhóm B ở các thai phụ tuổi thai từ 34-36 tuần là 13,2%. Mức độ nhạy cảm của kháng sinh nhóm β lactam: Penicillin, Ampicillin, Augmentin, Ceftriaxone, Cefotaxime, Cefuroxim lần lượt là 86,21%, 79,31%, 89,66%, 65,52%, 65,52%, 72,41%. Trong đó Penicillin, Ampicillin vẫn là những loại kháng sinh khá là nhạy cảm với liên cầu khuẩn nhóm B và được ưu tiên lựa chọn.
#Liên cầu khuẩn Streptocoque B #Mang thai
NGHIÊN CỨU TÌNH HÌNH NHIỄM STREPTOCOCCUS NHÓM B VÀ SỰ ĐỀ KHÁNG KHÁNG SINH CỦA VI KHUẨN Ở PHỤ NỮ MANG THAI 35-37 TUẦN TẠI BỆNH VIỆN QUỐC TẾ PHƯƠNG CHÂU NĂM 2021-2022
Đặt vấn đề: Streptococcus nhóm B là nguyên nhân gây ra hầu hết các bệnh nhiễm khuẩn huyết và viêm màng não ở trẻ sơ sinh, là nguyên nhân gây sốt phổ biến trong giai đoạn gần thời gian sinh nở ở phụ nữ mang thai và gây ối vỡ sớm, đẻ non. Mục tiêu nghiên cứu: 1. Xác định tỉ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B và một số yếu tố liên quan ở phụ nữ mang thai 35-37 tuần tại Bệnh viện Quốc tế Phương Châu năm 2021-2022; 2. Xác định tỉ lệ đề kháng kháng sinh của Streptococcus nhóm B phân lập được. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Phụ nữ mang thai 35-37 tuần đến khám tại Bệnh viện Quốc tế Phương Châu năm 2021-2022. Xác định nhiễm Streptococcus nhóm B ở phụ nữ mang thai 35-37 tuần bằng kỹ thuật nuôi cấy định danh vi khuẩn với mẫu dịch âm đạo và làm kháng sinh đồ. Kết quả: Có 400 phụ nữ mang thai 35-37 tuần được làm xét nghiệm tìm Streptococcus nhóm B bằng kỹ thuật nuôi cấy, định danh vi khuẩn và làm kháng sinh đồ. Tỉ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B ở phụ nữ mang thai 35-37 tuần là 17,8%. Tỉ lệ đề kháng kháng sinh: Ampicillin 60,6%, Cefazolin 53,5%, Clindamycin 60,6%, Erythromycin 47,9%, Penicillin 77,5%, Vancomycin 1,4%. Kết luận: Tỉ lệ nhiễm Streptococcus nhóm B ở phụ nữ mang thai 35-37 tuần là 17,8%. Tỉ lệ đề kháng kháng sinh: Ampicillin 60,6%, Cefazolin 53,5%, Clindamycin 60,6%, Erythromycin 47,9%, Penicillin 77,5%, Vancomycin 1,4%.
#Streptococcus nhóm B #phụ nữ mang thai #đề kháng kháng sinh
ỨNG DỤNG KỸ THUẬT SINH HỌC PHÂN TỬ ĐỂ XÁC ĐỊNH CÁC KIỂU HUYẾT THANH CỦA LIÊN CẦU TAN HUYẾT NHÓM B PHÂN LẬP TỪ ĐƯỜNG SINH DỤC PHỤ NỮ MANG THAI
Tạp chí Truyền nhiễm Việt Nam - Tập 1 Số 33 - Trang 65-69 - 2021
Mục tiêu: Ứng dụng các kỹ thuật sinh học phân tử để giám định và xác định các kiểu huyết thanh của liên cầu tan huyết nhóm B phân lập từ đường sinh dục phụ nữ mang thai 35-37 tuần. Đối tượng và phương pháp: 69 chủng vi khuẩn liên cầu tan huyết nhóm B được phân lập từ phụ nữ mang thai 35-37 tuần tại Bệnh viện Sản nhi tỉnh Nghệ An trong thời gian từ tháng 5/2018 đến 7/2019. Các chủng vi khuẩn liên cầu tan huyết nhóm B được giám định loài bằng nhộm Gram, thử nghiệm CAMP và sử dụng cặp mồi đặc hiệu khuếch đại gen dltS. Các kiểu huyết thanh được xác định bằng kỹ thuật PCR đa mồi. Kết quả: Nghiên cứu đã xác định được 7 kiểu huyết thanh Ia, Ib, II, III, V, VI, VII ở phụ nữ mang thai 35-37 tuần. Trong đó, kiểu III (n = 27/69; 39,13%) và V (n=22/69; 31,89%) chiếm tỷ lệ cao nhất, tiếp theo lần lượt là kiểu Ia (n=8/69; 11,59%), VI (n=8/69; 11,59%), Ib (n=2/69; 2,90%), II (n=1/69; 1,45%) và VII (n=1/69; 1,45%). Các kiểu huyết thanh IV, VIII và IX không xuất hiện trong nghiên cứu này. Kết luận: Đây là nghiên cứu đầu tiên xác định các kiểu huyết thanh của liên cầu tan huyết nhóm B phân lập từ người tại Việt Nam. Khuyến nghị: Cần có thêm các nghiên cứu khác để làm rõ hơn phân bố các kiểu huyết thanh của liên cầu tan huyết nhóm B ở Việt Nam.
#Sinh học phân tử #liên cầu tan huyết nhóm B #kiểu huyết thanh
Tổng số: 12   
  • 1
  • 2